“Tây Du Ký” là tác phẩm nổi tiếng kể về câu chuyện bốn thầy trò Đường Tăng đi Tây Thiên thỉnh kinh, trải qua 81 kiếp nạn, cuối cùng cũng lấy được Phật Pháp chân kinh. Nhưng trong thực tế lịch sử, trên chặng đường Đường Tăng đi Tây Thiên thỉnh kinh, không hề có Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng và Bạch Long Mã đồng hành, nhưng nó vẫn là một câu chuyện bất hủ, chặng đường thiên nan vạn khổ của ông cũng rất ly kỳ.

Thông minh nho nhã, tướng mạo phi phàm

Đường Tăng Huyền Trang tên là Trần Y, quê ở Hà Nam, sinh ra ở thôn Trần Gia, cách Lạc Dương 30 dặm (thuộc Yển Sư, Hà Nam ngày nay) vào cuối thời Tùy Đường, là người con thứ tư trong gia đình. Phụ thân tên là Trần Huệ, tính tình điềm đạm, từ quan ẩn cư.

Trong “Tây Du Ký”, Đường Tăng được miêu tả là một nhà sư ôn tồn lễ độ, cung kính thận trọng. Huyền Trang ngoài đời thật mi thanh mục tú, tướng mạo phi phàm, là một nam tử tuấn tú, từ nhỏ rất thông minh, thích đọc sách Thánh hiền, siêu phàm thoát tục, tĩnh tại ung dung.

“Phật môn thiên lý câu”

Trần Y phải trải qua một tuổi thơ rất khổ cực. Mẫu thân qua đời lúc 5 tuổi, lên 10 tuổi phụ thân cũng qua đời khiến ông sớm cảm nhận được nhân sinh vô thường. Năm lên 11 tuổi, Trần Y lúc này mồ côi cả cha lẫn mẹ, ông theo người anh thứ hai là Trương Tiệp đại sư, đến chùa Tịnh Độ ở Lạc Dương học tập Phật Pháp. Ông ngày đêm chuyên tâm nghiên cứu kinh Phật, năng lực hiểu biết của ông rất phi thường, thậm chí có thể thăng tòa thuyết pháp, giảng giải kinh Phật hết sức thấu triệt, rất được truyền tụng ca ngợi, lúc đó ông mới 13 tuổi.

Khi Huyền Trang được 20 tuổi, ở Thành Đô ông thụ đủ giới, chính thức có được tư cách tăng lữ, ông phải tuân theo 250 giới luật.

Năm 24 tuổi, Huyền Trang đã được phong là Tam Tạng, Tam Tạng tương đương với một học vị hiện nay, tức là thông thạo Tam Tạng kinh điển, là Pháp sư cấp bậc cao nhất thời đó.

Lúc bấy giờ, Huyền Trang đã nổi tiếng khắp kinh thành, ông được mệnh danh là “Phật môn thiên lý câu”. Nhưng Huyền Trang đã gặp phải một vấn đề nan giải. Khi học kinh Phật, ông cảm thấy nhiều nội dung được trình bày không rõ ràng, không thống nhất hoặc không có tiêu chuẩn xác định.

Vì vậy, ông đã đi khắp núi nam bể bắc, tìm đến các cao tăng để thỉnh vấn, ông đã đi đến hơn một nửa vùng đất Trung Quốc, nhưng mối nghi hoặc của ông ngày càng lớn hơn. Rốt cuộc thì kinh sách gốc của Phật giáo giảng như thế nào? Trong tâm trùng trùng nghi hoặc, Huyền Trang hạ quyết tâm tới Tây Thiên thỉnh kinh, quyết tâm tìm bộ kinh điển Đại thừa “Du già sư địa luận” để giải khai những nghi hoặc trong lòng.

Người Trung Quốc được tôn kính nhất ở Ấn Độ

Đi về phía tây hơn 5 vạn dặm, nếm trải qua muôn vàn gian hiểm, cuối cùng Huyền Trang đã đến được trung tâm nghiên cứu Phật học của Ấn Độ cổ đại, đây chính là điểm đến cuối cùng trong cuộc hành trình của Huyền Trang – chùa Nalanda.

Cuối cùng Huyền Trang đã đến được trung tâm nghiên cứu Phật học của Ấn Độ cổ đại. (Ảnh minh họa: Pixabay)
Sư phụ Giới Hiền, trụ trì chùa Nalanda, lúc đó đã hơn một trăm tuổi. Ông hỏi Huyền Trang: “Ông từ đâu tới?”

Huyền Trang trả lời: “Ta từ Đông Thổ Đại Đường xa xôi, đến đây để học hỏi ngài “Du già sư địa luận”, để hồng dương Phật Pháp ở Đông Thổ.”

Nghe xong lời của Huyền Trang, đại sư Giới Hiền bỗng dưng trào nước mắt. Hà cớ gì mà ông lại khóc như vậy?

Hóa ra ba năm trước đại sư Giới Hiền bị bệnh thấp khớp nặng, mỗi lần bạo phát tựa như lửa thiêu dao cắt. Một đêm, ông nằm mơ thấy một vị Bồ tát nói với ông rằng bệnh này là do nghiệp chướng ở kiếp trước, ba năm sau sẽ có người từ Đông Thổ đến học Phật Pháp, lúc đó hãy truyền thụ thật cặn kẽ kinh “Du già sư địa luận”, như thế có thể hoán trả nợ nghiệp, bệnh sẽ hoàn toàn bình phục.

Huyền Trang biết rõ ngọn nguồn sự việc, buồn vui lẫn lộn, nghĩ rằng cơ duyên này này chính là Thiên ý! Vì vậy Huyền Trang bái Giới Hiền làm thầy, học tập Phật Pháp trong năm năm, đồng thời ông cũng học cả tiếng Phạn nữa.

Sau đó, Huyền Trang đi nhiều nước ở tiểu lục địa Ấn Độ để giao lưu Phật Pháp, danh tiếng của ông ngày càng lớn.

Một lần, quốc vương của Ấn Độ cổ đại là Giới Nhật Vương, đã tổ chức một cuộc tranh luận học thuật Phật Pháp toàn quốc với quy mô chưa từng có tại ở thủ đô Khúc Nữ Thành (nay là Kanaoje, Ấn Độ). Tại hội nghị đó Huyền Trang đã đọc bài luận của mình bằng tiếng Phạn và khiến mọi người sửng sốt, trong suốt 18 ngày hội nghị diễn ra, không ai phản bác lại luận điểm của ông. Huyền Trang nhận được sự kính trọng của các nước Ấn Độ lúc đó, danh tiếng của ông không ai sánh kịp, một số vị quốc vương thậm chí còn muốn xây dựng một trăm ngôi chùa để thờ phụng ông.

Ngày nay tên của Huyền Trang vẫn còn trong sách giáo khoa của Ấn Độ. Ở Ấn Độ, ông vẫn là người Trung Quốc nổi tiếng nhất và được kính trọng nhất.

Huyền Trang trở về Đông thổ

Huyền Trang vẫn chưa quên nguyện ban đầu của mình đó là mang kinh Phật về Đông thổ. Năm 641, Huyền Trang từ biệt quốc vương Giới Nhật Vương và chuẩn bị trở về nước.

Vào năm Trinh Quán 18 (năm 644), khi Huyền Trang trở về, ở kinh thành Trường An người người đổ xô ra đường, quan viên và dân chúng xếp hàng dài 10 dặm nghênh đón. Nhớ lại 16 năm trước, Huyền Trang rời Trường An trong dòng người chạy nạn. Nhưng với một niềm tin vững chắc vào Phật Pháp, ông đã bắt đầu cuộc hành trình đầy chông gai. Khi trở về, ông được nghênh đón nồng hậu, trọng đại chưa từng có.

Ở cuối phía nam của đường Chu Tước ở Trường An, bóng dáng Huyền Trang dần dần hiện ra, ông đã từ Tây Thiên trở về với 20 con ngựa chở 520 bọc kinh sách với tổng cộng 657 bộ, 150 xá lợi nhục thân Như Lai, và bảy bức tượng Phật bằng vàng và bạc.

Vào ngày hôm đó, trên bầu trời hiện lên những đám mây lành đủ màu sắc, bay vòng tròn ngay phía trên kinh Phật.

Bái kiến Đường Thái Tông

Tháng 2 năm Trinh Quán thứ 19 (năm 645), Đường Thái Tông triệu Huyền Trang vào cung, hai người gặp nhau vẫn thân thiết như xưa, nói chuyện tương thông tương ý, chuyện trò từ lúc mặt trời mọc cho đến khi trời tối.

Đường Thái Tông còn đặc biệt tặng cho Đường Tăng một chiếc áo cà sa và một chiếc dao cạo. Chiếc áo cà sa này khả năng chính là chiếc áo cà sa được nhắc đến trong “Tây du ký” do Quan Âm Bồ Tát tặng, chiếc áo cà sa này trị giá ngàn vàng, phải mất mấy năm mới may xong, vô cùng tinh mỹ, có thể nói là “áo trời không vết chỉ khâu.”

Đường Thái Tông Lý Thế Dân có mối liên hệ sâu sắc với Phật giáo. Khi Lý Thế Dân 9 tuổi từng bị bệnh về mắt, phụ hoàng của ông là Đường Cao Tổ Lý Uyên vì thế mà đến chùa Hoa Đường ở Trường An bái Phật, sau đó Lý Thế Dân quả thật đã khỏi bệnh, điều đó đã để lại ấn tượng rất lớn đối với Lý Thế Dân.

Nhờ sự ủng hộ của Đường Thái Tông, Phật giáo thời Đại Đường phát triển đến cực thịnh, tư tưởng của Phật gia ăn sâu vào tâm khảm của người dân, văn võ bá quan tin vào nhân quả, bách tính tu tâm hướng thiện, xã hội an định, buổi đêm không cần đóng cửa.

Huyền Trang dịch kinh sách, Đường Thái Tông viết lời tựa

Khi Huyền Trang lấy kinh trở về, ông đã khoảng 45 tuổi. Ông dành hầu hết thời gian trong 20 năm cuối cuộc đời để phiên dịch kinh sách thành tiếng Trung. Dưới sự giúp đỡ của Đường Thái Tông, Huyền Trang thiết lập một trung tâm dịch thuật quốc gia, trong khoảng thời gian gần 20 năm, Huyền Trang chủ trì phiên dịch được 1335 cuốn kinh Phật, mỗi 5 thiên lại phiên dịch thành một cuốn.

Việc phiên dịch Kinh Phật thành tiếng Trung trước đó, nếu phiên dịch theo nghĩa đen, thì sẽ không phù hợp với thói quen ngôn ngữ của người Hán; còn nếu phiên dịch theo ý, thì lại làm mất đi nghĩa nguyên gốc. Huyền Trang chủ trương là phiên dịch theo nghĩa đen, đồng thời cũng kết hợp dịch ý, vừa không làm mất đi nghĩa gốc, vừa dễ dàng lý giải. Trong lịch sử phiên dịch, ông đã thiết lập một quy phạm mới. Hậu nhân gọi kinh Phật mà Huyền Trang phiên dịch là Tân dịch, còn kinh Phật phiên dịch trước đó gọi là Cựu dịch. Năm Trinh Quán thứ 22 (năm 648), Huyền Trang phiên dịch xong 100 cuốn “Du già sư địa luận”. Sau đó ông dâng lên Đường Thái Tông xem trước, Thái Tông xem xong mà tán tụng: Phật Pháp quảng đại, rồi đích thân viết lời tựa.

Hoàn thành sứ mệnh, dự báo thăng thiên

Trong thời gian Huyền Trang phiên dịch kinh Bát Nhã ở chùa Ngọc Hoa, ông từng nói với các đệ tử rằng, thân thể con người yếu nhược, không thể trường tồn mãi được, khi ta 65 tuổi, nhất định sẽ chết ở trong chùa Ngọc Hoa. 5 năm sau, 600 cuốn kinh Bát Nhã cuối cùng đã được phiên dịch hoàn tất. Huyền Trang bắt đầu dặn dò việc hậu sự cho các đệ tử. Ngày 24 tháng giêng năm 664, Huyền Trang triệu tập các đệ tử phiên dịch kinh sách lại bên cạnh và dặn dò: Ta đã hoàn thành sứ mệnh của mình tại thế gian, không còn phải tiếp tục ở lại nhân gian nữa, ta mong nguyện tương lại khi Phật Di Lặc hạ thế, ta có thế theo Ngài hạ thế, trợ giúp Ngài cứu thế, đắc được giác ngộ tối cao. Huyền Trang cũng nhắc nhở, việc hậu sự phải tiết kiệm, chỉ cần lấy một cái chiếu thô bọc ta lại, rồi chôn ở chỗ núi sông vắng vẻ là được rồi.

Vào canh 3, ngày 15 tháng 2, Huyền Trang qua đời thanh thản, dung mạo tường hoà còn hơn cả lúc còn sống, giống như đang nằm trong giấc mộng an hòa, sắc mặt hồng hào.

Tin buồn truyền đến, Đường Thái Tông bãi triều 3 ngày, hô lên: Trẫm đã mất đi quốc bảo. Ngày 14 tháng 4 năm 664, lễ an táng Huyền Trang được cử hành tại đô thành Trường An, người đưa tang hơn 100 vạn. Dân số của Trường An lúc đó cũng khoảng hơn 100 vạn người. Có thể nói, từ hoàng thất cho đến bách tính, từ người của Phật môn cho đến người thế tục, tất cả đều tham gia đưa tang Huyền Trang. Pháp Sư Huyền Trang được an táng sau khi qua đời 60 ngày. Theo “Đại Đường Cố Tam Tạng Huyền Trang Pháp Sư Hành Trạng” ghi chép: Huyền Trang khi hạ táng, sắc mặt như còn sống, tỏa ra hương thơm, thậm chí còn mọc thêm tóc.

Huyền Trang cả một đời không quản sinh tử, dưới sự bảo hộ của Thần Phật, dốc hết sức lực đến tận cuối đời, đã hoàn thành sứ mệnh to lớn, vì sự phát triển và phồn thịnh của Phật Pháp tại Đông Thổ, lập nên công lao bất hủ.

— Sưu tầm