Tôi không bao giờ quên cuộc bầu cử năm 2016 ở Mỹ khi lần đầu tiên tôi tận mắt chứng kiến những người trong gia đình và các mối quan hệ gần gũi khác huỷ bỏ kết nối bạn bè với nhau trên facebook, hoặc cãi nhau đến sứt mẻ tình cảm ngay trên bàn ăn vì bất đồng chính kiến. Báo chí Mỹ phân cánh rõ rệt. Ai thích Trump thì đọc Fox, National Review, Breitbart… nơi ông ta xuất hiện chủ yếu với ánh hào quang. Ai ghét Trump thì đọc NY Times, CNN, và các báo cánh tả khác. Kết quả bầu cử đi liền với những cáo buộc hướng về một kẻ giật dây dấu mặt: Big Data – cơ sở dữ liệu lớn.
Một trong vô vàn ứng dụng cuả Big Data dựa vào các thuật số của internet và khiến những gì chúng ta bấm like, chia sẻ, nhận xét, hoặc thậm chí chỉ mở trang để đọc… trở thành một hệ số dự đoán để các nội dung tương tự tự động xuất hiện với tần suất cao hơn. Phần mềm thuật toán ngay lập tức thu vào cơ sở dư liệu các thông tin về nội dung chúng ta vừa đọc, thể loại, địa chỉ trang web, địa điểm cư trú, chủng loại máy tính, tổng số thời gian chúng ta dừng lại ở một trang web, nội dung e-book ta đang đọc, các từ chúng ta đánh dấu, thậm chí cả thời điểm chúng ta lật trang…vv. Dựa vào hàng trăm thông số thu được, các thuật toán sẽ tự động điều phối và gửi tới tới máy tính cá nhân những nội dung có cùng tần số. Nếu bạn thích và hay đọc các trang làm đẹp, tường facebook nhà bạn sẽ mau chóng giống như một đại lộ của các thẩm mỹ viện, và email của bạn sẽ mau chóng đầy các thư mời thử kem sản phẩm mới. Thậm chí khi bạn vào một website không-liên-quan đến làm đẹp, cột quảng cáo cũng có thể hiện ra loại nước hoa mà bạn mới chỉ đang chớm nghĩ đến trong đầu.
Trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ cũng vậy. Nếu ai đó ghét ông Trump, xung quanh người đó sẽ xuất hiện toàn những post dìm ông ta xuống đáy vực. Với một người ủng hộ ông ta, internet sẽ cung cấp toàn những bài viết, và hình ảnh mà trong đó ông ta xuất hiện như một vị cứu tinh. Thế giới quan của chúng ta bị nhào nặn theo hướng mà internet tính toán rằng ta sẽ tương tác nhiều nhất. Nói cách khác, ta bị giam cầm trong một không gian giả tạo, ảo tưởng, thiếu khách quan, thậm chí dối trá. Tất cả chỉ với mục đích ve vuốt cái tôi mong manh dễ tổn thương và sự thèm khát được ở bên những kẻ cùng ý kiến với chính chúng ta.
Vậy tại sao chúng ta lại có xu hướng dễ dãi như vậy?
THIÊN KIẾN XÁC NHẬN
Tổ tiên của loài người sống hàng triệu năm trên vùng đồng cỏ savannah với rất nhiều mối hiểm nguy rình rập, từ các loài thú dữ cho đến các bộ lạc thù địch. Bối cảnh đó khiến cho việc tư duy tranh luận một cách logic không quan trọng bằng việc xử lý tình huống một cách hiệu quả và thu hút được sự ủng hộ của người trong bộ lạc. Một nguời có đầu óc khách quan, biết cân nhắc sự việc mà không để tình cảm chi phối sẽ không lãnh đạo bộ lạc hiệu quả bằng một người mạnh mẽ, dù không khách quan nhưng biết cách dùng tình cảm để lôi kéo, dù không có bằng chứng sự thật nhưng biết cách trấn an hoặc kích động đồng loại. Hàng triệu năm như vậy khiến loài người dần dần hình thành xu hướng nghiêng theo những gì mình tin là đúng, chứ không phải những gì được chứng minh là đúng (confirmation bias).
Theo nguyên tắc tiến hoá song hành (culture-gene coevolution), gene và cấu trúc não của chúng ta sẽ dần dần thay đổi để phù hợp với hình thái văn hoá có lợi nhất cho sinh tồn. Vì sự thật không quan trọng bằng niềm tin, nên hình ảnh từ thế giới xung quanh sẽ được sàng lọc trước khi đi tới trung tâm xử lý thông tin của não bộ. Ở vùng trên của thân não chúng ta có một đám dây thần kinh tên là Reticular Activating System (RAS). Tất cả mọi hình ảnh thông tin của thế giới đều đi qua RAS để tới bộ não. Nhưng nếu cái gì chúng ta cũng chú ý thì bộ não sẽ quá tải, vì vậy, RAS đóng vai trò như người gác cổng, chỉ cho những thông tin quan trọng đi qua.
Vậy thông tin nào RAS cho là quan trọng? Đó là những thông tin mà chính chúng ta coi là thiết yếu. Ví dụ như khi bạn đi giữa phố đông người, ai đó gọi tên bạn bằng một lượng âm thanh nhỏ hơn hẳn tiếng ồn ào xung quanh, nhưng sao bạn vẫn nhận ra. Đó là khi giữa trùng trùng lớp người, bạn vẫn có thể thấy lưng áo của một nguời thương mến. RAS là hệ thống sàng lọc để chúng ta có thể nhận ra những thông tin ta mong muốn, dù thông tin đó bé xíu, nhỏ nhoi, yếu ớt. RAS là nguyên nhân khi tôi tự dưng thích nhuộm tóc màu tím – sau khi suy nghĩ mất ba ngày – thì phát hiện ra hình như cứ năm cô gái đi trên đường phố Sydney có một cô nhuộm tóc tím. Đó là vì trước đó RAS của tôi lọc bỏ “bọn tóc tím”, nhưng khi tóc tím quan trọng với tôi thì tôi sẽ chỉ nhìn thấy toàn tóc tím.
Như vậy, RAS cung cấp cho chúng ta những gì ta muốn thấy, ta sẽ nhận những gì ta mong chờ. Đó là nguyên nhân vì sao “giả dược” – placebo – có tác dụng. Nếu chúng ta bảo bệnh nhân thuốc này uống sẽ đỡ mệt, dù đó chỉ là viên kẹo, bệnh nhân cũng sẽ báo cáo là họ đỡ mệt. Đó là vì khi họ mong chờ kết quả khả quan, RAS sẽ thanh lọc thông tin, tập trung ý nghĩ, hành động của bệnh nhân vào các thông tin phù hợp với kết quả khả quan mà họ mong ngóng. RAS thậm chí còn bóp méo hiện thực để khít với suy nghĩ của chúng ta. Trong một thí nghiệm của Stolier và Freeman, những khuôn mặt người da đen “hạnh phúc” bị đánh giá là “giận giữ” và những khuôn mặt phụ nữ “giận giữ” lại được cho là họ đang hạnh phúc. Đây là kết quả của định kiến xã hội cho rằng phụ nữ luôn phải tươi vui còn đàn ông da đen thì toàn bạo lực. Tóm lại, bộ lọc RAS khiến chúng ta nhìn cuộc sống theo một lăng kính khác, lăng kính của những suy nghĩ mà chính chúng ta tự hình thành.
BONG BÓNG BỘ LỌC THỰC TẠI
Cuộc sống hiện đại của chúng ta có một phần lớn các trải nghiệm và tương tác bằng internet. Tuy nhiên, cuộc cách mạng công nghệ 4.0 không kết nối những tư tưởng khác biệt, mà với thiên kiến xác nhận, chúng ta lại dễ dàng kết nối với những kẻ giống hệt như mình. Tại sao? Vì những kẻ có cùng suy nghĩ, cùng chính kiến, cùng sở thích, cùng tư tưởng sẽ khiến ta thấy giá trị của bản thân mình được khẳng định mạnh mẽ hơn.
Big Data và các thuật toán lợi dụng điều này để đóng vai trò như một RAS ngoài não bộ, đảm nhiệm việc thanh lọc thông tin, chỉ cho lọt những hình ảnh, sự kiện, và tư tưởng có cùng tần số với những gì ta thích thú. Kết quả là sự thật và thế giới quanh ta trở thành một phiên bản thiếu hoàn chỉnh vì nó được sàng lọc qua thậm chí hai lần RAS.
Trong cuốn sách của mình (Filter Bubbles), tác giả Eli Pariser nêu ra một ví dụ điển hình khi hai người khác nhau cùng tìm kiếm tên của công ty dầu lửa Anh Quốc BP và có kết quả khác hẳn nhau. Một người được mời đầu tư vào BP, còn người kia nhận được thông tin về vụ BP xả thải ra biển. Các nhà khoa học tính toán rằng sự khác nhau trong kết quả tìm kiếm có thể thay đổi 20% kết quả của một cuộc bầu cử chính trị. Đây là cơ sở để nhiều người tin rằng Nga hoàn toàn có khả năng tác động đến việc ông Trump thắng cử bằng việc lèo lái Big Data.
HẬU QUẢ
Vậy điều gì sẽ xẩy ra nếu thế giới quan quanh ta chỉ toàn những gì ta đồng ý, hợp cạ và thích thú? Thứ nhất, ta dừng phát triển và trở nên thui chột, hệt như việc thực thể sinh học bị thui chột khi không có nguồn gene mới. Sự dễ dãi, thoải mái và cái tôi được cưng chiều sẽ mau chóng dẫn đến sự nghèo nàn về nhận thức. Những người sống trong bong bóng chỉ thấy toàn kẻ giống mình. Chính vì thế, nhiều người ủng hộ bà Clinton sửng sốt vì kết quả bỏ phiếu, một phần vì họ không thể nhìn ra ngoài cái bong bóng bộ lọc của mình khi mà trên facebook, trên TV, và xung quanh họ toàn những thông tin vẽ nên viễn cảnh bà Clinton sẽ thắng. Sau kỳ bầu cử, ứng dụng này cuả Big Data được cho là nguyên nhân giết chết dân chủ vì nó triệt tiêu thế mạnh của sự khác biệt.
Đây chính là lý do mà logic và tranh luận khách quan trở nên quan trọng khi loài người từ bỏ cuộc sống đồng cỏ và xây dựng các hình thái xã hội cao cấp hơn. Bộ não cũng được “nâng cấp” với vùng vỏ não (neocortex) cho phép ta suy nghĩ sâu và đa chiều. Tuy nhiên RAS tồn tại, vì nó vẫn có ích, và vì RAS là một phần của lịch sử phát triển não bộ, không thể nhanh chóng bị loại bỏ, nhất là khi lịch sử hiện đại chỉ là một giai đoạn rất ngắn so với tiến trình phát triền của loài người. Tuy nhiên, RAS điện tử của thời đại công nghệ 4.0 thì rất mới, và chúng ta chỉ mới đang bắt đầu nhìn ra điểm yếu của nó.
Hậu quả thứ hai của cái bong bóng bộ lọc thực tại là việc chúng ta sẽ bị chính cái bong bóng đó biến đổi. Khởi điểm, bong bóng là do ta tạo nên. Nhưng dần dần, bong bóng thiết lập một trật tự thế giới mới khiến ta mất khả năng tiếp cận với các thông tin đa chiều. Bong bóng đó liên tục bồi đắp và củng cố các ý tưởng, thói quen, kết nối ta với các mối quan hệ cùng tần số, dần dần hình thành nên tính cách, khắc sâu thành niềm tin, và lái số phận của chúng ta theo một hướng mà ta buông lơi khả năng làm chủ. Hãy so sánh với việc ta cầm bánh lái nhưng chỉ có một con đường duy nhất hiện rõ, trong khi các con đường khác bị bong bóng bộ lọc làm cho lu mờ.
Hậu quả thứ ba của bong bóng bộ lọc thực tại là những hệ luỵ của tư tưởng bầy đàn (group think). Khi một kiểu tư duy và suy nghĩ được cả một đám đông ủng hộ và tin tưởng, sức mạnh của nó được nhân lên nhiều lần. Những cá nhân trong bong bóng bộ lọc đó bị mất khả năng nhìn nhận khách quan và không thể chấp nhận những ý kiến khác mình. Xu hướng bầy đàn thời kỳ 4.0 có thể làm nên những điều kỳ diệu, nhưng cũng có thể tàn phá huỷ diệt, ví dụ như những nhóm cánh hữu hoặc cánh tả cực đoan.
GIẢI PHÁP
Sự cấm đoán hầu như không bao giờ là giải pháp triệt để. Ví dụ như việc Trung Quốc cấm Facebook và Google chỉ tạo ra một cái bong bóng bộ lọc mới. Cách tốt nhất là cạnh tranh lành mạnh và nâng cao hiểu biết cho người dân. Tại nhiều nước phát triển, giáo dục về internet và mạng xã hội đã bắt đầu trở nên phổ biến. Trẻ em được dạy cách tiếp cận, sử dụng, và giao tiếp trên mạng để có thể vừa sử dụng mạng hiệu quả, vừa bảo vệ bản thân. Về phần người lớn, chúng ta phải đủ hiểu biết và mạnh mẽ để đối mặt với sự đa dạng và phức tạp của thế giới. Sau đây là một số phương pháp đơn giản nhất:
1. Khi vào facebook, luôn luôn bấm vaò biểu tượng ba dấu ngang ở góc phải màn hình, sau đó chọn “Most recent” – Tin mới nhất. Facebook để mặc định “Top Stories” – Tin nổi bật, và như vậy tường nhà bạn sẽ toàn các tin mà facebook nghĩ bạn sẽ thićh chứ không phải các tin xuất hiện theo dòng thời gian. Nếu bạn vào facebook theo cách mới, bạn sẽ gặp lại những người bạn tưởng như đã biến mất, những tin tức bạn chưa từng nghe tới, những sự kiện bạn nghĩ không hề tồn tại. Đây mới chính là thực tế cuộc sống trên mạng của bạn.
2. Tắt chế độ hiển thị các trang mà bạn thích trên mạng xã hội. Khi vào mạng, dùng các phần mềm chặn quảng cáo và phần mềm cho phép bạn vào internet giấu mặt (incognito). Thường xuyên xoá bỏ lịch sử nhập trình duyệt web.
3. Trước khi share bất kỳ tin gì cũng kiểm tra.
4. Đọc thật nhiều, từ mọi phía, thậm chí cả các trang mà nghe tên đã rùng mình vì ghét. Mạnh dạn nhấn like các tờ báo và tài khoản mạng xã hội trái chiều với mình. Trên tường nhà tôi giờ như chiến trường vì sự đẫm máu. Mỗi buổi sáng lướt qua tôi đều bất ngờ vì dao kiếm phản biện. Nhưng đó là cách duy nhất để tôi có thể lắng nghe và tiếp cận thông tin từ mọi phía. Nhiều kênh thông tin đã bắt đầu trang bị chức năng giúp người dùng thoát khỏi bong bóng bộ lọc, ví dụ như “Escape your bubble” plug-in cho Facebook, “Outside your bubble” trên trang lá cải BuzzFeed, “Today in Conservative Media” trên trang cánh tả Slate, hay “With Friends like These” trên kênh chính trị Crooked Media.
5. Chọn đọc các kênh thông tin được giới nghiên cứu cho là khách quan nhất. Tất nhiên không có kênh nào khách quan tuyệt đối vì phóng viên cũng ý thức hoặc vô thức nhìn nhận theo quan điểm cá nhân.
6. Từ bỏ mục tiêu “giải trí” và chủ động lựa chọn mục tiêu “giáo dục“. Việc lười biếng dạo qua facebook, các app thông tin và một vài tờ báo khác biến chúng ta, như tác giả Nicholas Carr nhận xét, “một lũ chuột thí nghiệm liên tục chạy vòng tròn cắn vào các thanh chắn để được thưởng một miếng pho-mát tí teo“. Thay vào đó, chủ động lựa chọn một chủ đề và tìm kiếm thông tin đa chiều về chủ đề đó thay vì để Big Data dẫn dắt.
Tóm lại, cả hai bộ lọc RAS trong não bộ và RAS internet tuy hiệu quả nhưng có tiềm năng “tẩy não” chúng ta bằng các thông tin dễ dãi, một chiều. Cách hiệu quả nhất để ta cân bằng lại là chủ động tìm đến điều ta cần chứ không phải điều ta muốn.
Nói cách khác, ta phải tự động “tẩy não” chính bản thân mình.
— PGS.TS Nguyễn Phương Mai.